Những nội dung cơ bản của Khí công Y Đạo – Thầy Đỗ Đức Ngọc

Trên cơ sở mấy chục năm nghiên cứu khí công chữa bệnh, Thầy Đỗ Đức Ngọc đã đúc rút được 3 vấn đề cốt lõi và đã trực tiếp chữa cho hàng vạn người trên thế giới cả người ngoại quốc và người Việt từ các bệnh thông thường đến các bệnh nan y. Những nội dung cốt lõi của KCYD Việt Nam đó là: Điều chỉnh Tinh, điều chỉnh khí, điều chỉnh thần để luôn luôn duy trì sự cân bằng trong cơ thể con người.

Để thực hiện được những điều đó, KCYD sử dụng:

1.Điều chỉnh tinh

Điều chỉnh bằng ăn uống hoặc dùng thuốc để tăng cường thêm tinh lực cho cơ thể và luôn luôn chú ý đến vấn đề ăn uống đúng để cân bằng âm dương.

Ví dụ người huyết áp thấp thì không được ăn uống những thức ăn, đồ uống làm giảm áp huyết, ngược lại người huyết áp cao thì không được ăn thức ăn, đồ uống làm tăng huyết áp.

2.Điều chỉnh Khí

Để điều chỉnh khí sử dụng phương pháp động công.

Mục đích của động công là tập luyện cơ thể bền bỉ dẻo dai, khai thông được khí huyết ở chỗ bị bế tắc, khai mở các huyệt của Kỳ kinh Bát mạch và các luân xa theo một nhịp độ sinh học đồng bộ giữa động tác và hơi thở thuận với nhịp sinh học trao đổi chất của âm dương, khí huyết để tự nó có thể khai mở được vòng Tiểu Chu Thiên và Đại Chu Thiên trong cơ thể, nhằm tăng cường khả năng tự chữa bệnh và phòng chống bệnh cho chính bản thân và có khí lực và thần lực để chữa bệnh cho người khác mà không sợ mệt và mất khí như những thầy chữa bệnh khác.

Những bài tập động công cũng có thể áp dụng hướng dẫn cho người bệnh tập luyện nhằm tăng cường dương khí, những động tác tay chân đều theo quy luật trong âm có dương, trong dương có âm và các động tác phải phù hợp với hơi thở tùy theo mỗi trường hợp bệnh cần chữa trị.

Các thế khí công căn bản để trị bệnh thuộc phần động công, chú trọng vào sự điều chỉnh khí hóa của hệ thống Tam Tiêu, điều chỉnh thần kinh ( thần ), thông khí huyết cho lục phủ ngũ tạng, chuyển khí chạy theo vòng Nhâm-Đốc và tăng cường khí hoạt động cho Tam tiêu là Tông khí , Ngũ hành khí, Nguyên khí.

a)Khí của vùng thượng tiêu

Do Đan điền Khí vận hành bởi hơi thở của phế khí được tăng cường do hít thở sâu cho dưỡng khí vào đầy phổi được tích lũy dư thưà hơn người bình thường, chỉ những người tập thể dục thể thao hoặc tập khí công mới có được, gọi là TÔNG KHÍ, nhờ nó tích lũy được nhiều oxy trong phổi mới làm tăng được hồng cầu và tăng áp lực kích thích sự tuần hoàn của tim mạch được mạnh hơn bình thường.

b)Khí của vùng trung tiêu

Do Đan điền Thần vận hành bởi khí của lục phủ, ngũ tạng được tăng cường sự sinh hóa chủ động có kiểm soát để có thể tăng cường chức năng hoạt động của lục phủ, ngũ tạng giúp cho sự hấp thụ và chuyển hóa khí huyết lưu thông khắp các kinh mạch, gọi là NGŨ TẠNG KHÍ .

c)Khí của vùng hạ tiêu

Do Đan điền Tinh vận hành bởi Nguyên khí Tiên thiên bẩm sinh tích lũy tại Thận, được bảo vệ, duy trì và tiếp nạp tồn trữ thêm khí Hậu thiên do ăn uống. Khi tập Khí công đưa hơi thở vào

Đan điền tinh để tăng cường chức năng hoạt động của Thận làm cho Nguyên khí Tiên thiên hoạt động mạnh hơn, giúp cho sự sinh hóa, chuyển hóa tinh chất của thức ăn hóa khí, chuyển khí hóa thần giúp Thận có khả năng hoạt động khỏe và lâu bền, kéo dài tuổi thọ hơn, gọi là Nguyên khí hậu thiên do tập luyện khí công mà có được, gọi chung cả hai loại khí của thận là NGUYÊN KHÍ.

Khi ba loại Tông khí, Ngũ tạng khí và Nguyên khí cùng hòa hợp đúng và đủ mới có thể chọn lọc được cốc khí (chất bổ của thức ăn) để sinh hóa và chuyển hóa trọn vẹn cốc khí thành hai loại khí quan trọng và cần thiết cho cơ thể là khí dinh dưỡng gọi là VINH KHÍ (là cốc khí chuyển hóa thành máu nuôi dưỡng cơ thể phát triển) và khí bảo vệ gọi là VỆ KHÍ (là

cốc khí chuyển hóa thành khí lực giúp máu tuần hoàn, và điều chỉnh số lượng hồng cầu, bạch cầu, huyết thanh, huyết bản, các loại hocmon các loại kháng thể cần thiết để bảo vệ cơ thể tăng cường sức đề kháng khi có bệnh).

Khí Vinh và Vệ mạnh hay yếu, lệ thuộc vào Tông khí từ Đan điền khí, tuần hoàn luân phiên qua huyệt Chiên Trung.

3.Điều chỉnh thần

Để điều chỉnh thần thực hiện tập tĩnh công.

Theo quy luật âm dương hòa hợp, tập động công là tập tăng cường dương khí và tập tĩnh công là phần âm chuyển hóa khí làm mạnh chức năng thần kinh, nhưng trong cách luyện và theo dõi hơi thở cũng thể hiện quy luật trong âm có dương, mục đích điều khiển hơi thở nhằm khai thông các đại huyệt trên mạch Nhâm-Đốc , giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể. Tĩnh công phải hội đủ ba điều kiện là điều thân, điều ý, điều tức.

a)Điều thân :

Có nhiều cách tập thở ở tư thế đứng, nằm, ngồi; cách ngồi để nạp khí và cách nằm để dưỡng thần.

b)Điều ý:

Với khẩu quyết của khí công ý ở đâu khí ở đó, khí đến đâu huyết đến đó cho nên tùy theo mục đích chữa bệnh hợp với nhu cầu cơ thể cần, như muốn tăng cường sự khí hóa, cần tăng huyết, cần an thần.. ý sẽ được tập trung vào các vị trí khác nhau ở Đan điền khí, Đan điền thần, Đan điền tinh hoặc ở huyệt Mệnh môn..

c)Điều tức :

Là tập điều hòa hơi thở được tự nhiên: nhẹ, chậm, sâu, lâu, đều, tự nhiên cho thành một thói quen, nhằm khai thông các huyệt đạo trên Nhâm-Đốc mạch giúp cho tinh-khí-thần hòa hợp, cùng vận hành liên tục theo vòng Tiểu chu thiên để tạo ra một hệ thống phòng chống bệnh tự động trong cơ thể.

Điều hòa hơi thở đúng sẽ làm thay đổi chức năng co bóp của tim và nhịp tim được cải thiện ngay sau khi tập, đã được kiểm chứng đo điện tâm đồ.

Tập thở chú ý đến điều chỉnh hơi thở nhẹ, chậm, sâu, lâu, đều, tự nhiên, không gò bó không ép hơi, tạo thành nhịp thở sinh học đều đặn theo chu kỳ khoảng 6 đến 12 hơi thở ra thở vào trong một phút, sẽ giúp cho hệ thống miễn nhiễm được mạnh gấp nhiều lần hơn những người khác. Bình thường một người khỏe mạnh không bệnh tật, thở trung bình một phút được 18 hơi, nếu đến tuổi già vẫn giữ được 18 hơi thì tuổi thọ có thể sống lâu 100 tuổi. Nếu hơi thở trên 18 hơi là cơ thể đã có bệnh (thí dụ như bị thở gấp, ngắn hơi, hụt hơi trong bệnh tim mạch, suyễn, đau đớn..) thì tuổi thọ sẽ giảm.

Ngoài ra có 3 bài tập thở tĩnh công để dưỡng tâm an thần, tăng cường hệ thống thần kinh, hệ miễn nhiễm và nội tiết giúp bệnh mau hồi phục.

Đã có nhiều người tập đều đặn một thời gian, sức khỏe được cải thiện, những bệnh tật kinh niên tự biến mất dần, ít phải dùng thuốc hơn, nhất là các bệnh đau nhức chân tay, lưng gối, cảm cúm, nhức đầu, chóng mặt, dị ứng, ho hen, suyễn, áp huyết, tiểu đường. Các thế tập trong bài không có gì đặc biệt, cầu kỳ và khó nhớ, khó tập như các môn khí công khác, nhưng kết qủa thật kỳ diệu, như một phép lạ.

4.Cách khám bệnh bằng KCYD

Đông y có Bát cương (8 Cương lĩnh) để qui loại bệnh: Âm- Dương, Biểu –Lý, Hàn- Nhiệt, Hư- Thực, Bát Pháp( 8 Phương pháp) để trị bệnh: Hãn, Hòa, Hạ, Tiêu, Thổ, Thanh, Ôn, Bổ.

Khi chẩn bệnh Đông Y dùng Tứ chẩn: Vọng, văn, vắn Thiết.

Khí Công Y Đạo cũng sử dụng Bát cương , Bát pháp và Tứ chẩn nhưng theo cách riêng: Đó là sử dụng những thành tựu của Tây Y để vận dụng vào khám bệnh thay cho bắt mạch của Đ.Y và cho kết quả chính xác cao hơn và thậm chí rất ngạc nhiên mà cả Đông Y và Tây Y cũng chưa ngờ tới.

KCYD dùng 4 thiết bị sau:

1.Máy đo huyết áp

2.Máy đo đường huyết

3.Máy đo nhiệt độ cơ thể

4.Máy đo oximeter

– Xin trình bày rõ hơn về sử dụng máy đo HA để chẩn đoán bệnh

Bảng tiêu chuẩn áp huyết của người khỏe mạnh theo KCYD:

Cách chữa đúng gốc bệnh cần phải bổ sung khí, huyết cho cơ thể đầy đủ, kết qủa điều trị phải được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết lọt vào tiêu chuẩn lứa tuổi dưới đây thì bệnh mới mau khỏi.

  • Áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi) 95-100/60-65mmHg, mạch nhanh có thể >100 nhịp/ phút.
  • Áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi) 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65
  • Áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi) 110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70
  • Áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75
  • Áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80

Khác với Tây Y, KCYD luôn đo huyết áp cả 2 tay để từ đó tìm ra bệnh thuộc Âm- Dương, Biểu – Lý, Hàn- Nhiệt, Hư – Thực.

KCYD đã chứng minh được bằng thực nghiệm HA trong cơ thể con người phụ thuộc vào yếu tố, trong đó có khí của Lục phủ, Ngũ tạng.

Đo huyết áp 2 tay trước và sau khi ăn 30 phút còn tìm ra được sự chuyển hóa đúng, sai của chức năng bao tử và gan. Ngoài ra KCYD còn đo HA ở hai chân để kiểm tra khí lực của chân cũng như sự đóng mở của các van tĩnh mạch chân, sự tuần hoàn máu ở chân. Người ta cứ tưởng khi đo áp huyết ở tay nào cũng giống nhau, hay đo ở chân cũng giống như ở tay đó là một sai lầm lớn, nên không phát hiện ra được những bệnh nan y. Theo Tây y, nếu 1 người có số đo HA >= 100/60 và <= 140/ 90 cho là bình thường. Thật ra đó là 1 sai lầm lớn. Huyết áp biểu hiện khí lực của một người và nó phải tăng theo tuổi ví như khi cây còn bé ta tưới 1 chén nước cây đủ sống, nhưng khi cây đã phát triển to, cành lá xum xuê, 1 chén nước không thể cung cấp đủ cho cây được, cây sẽ khô héo. Nhiều người bị chết âm thầm do huyết áp thấp mà không biết cũng như nhiều bệnh nan y cả Đông Y và Tây y tìm mãi không ra vì không nghiên cứu số đo huyết áp, nhịp tim 2 tay, 2 chân để so sánh với tiêu chuẩn của KCYD.

– Dùng súng bắn nhiệt độ có thể biết được các vùng của cơ thể cũng như các đường kinh lạc bị hàn, nhiệt, nhiều khi còn tìm ra được các bệnh nan y mà Đông Y cũng như Tây Y không tìm ra.

– Dùng máy thử tiểu đường để biết lượng đường huyết trong cơ thể cũng như trên các đường kinh có nằm trong tiêu chuẩn hay không để từ đó điều chỉnh bằng ăn uống hoặc dùng thuốc cho phù hợp. Khi cơ thể bị bệnh, đường trong huyết sẽ phân bố không đều, khi thử đường ở tay thì có thể nằm trong tiêu chuẩn, nhưng ở chỗ khác thì lượng đường có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với tiêu chuẩn, từ đó các thầy khí công có thể biết được nguyên nhân gây bệnh. Lượng đường tiêu chẩn trong máu khi đói phải từ 6 đến 8 mmol/l sau khi ăn đo được 10- 12 mmol/l mới là người khỏe mạnh.

– Dùng máy oximeter để đo lượng oxy trong cơ thể cũng như trên các đường kinh lạc để biết kinh nào thiếu khí để điều chỉnh bằng tập các bài khí công cho phù hợp.

Khi khám bệnh bằng oximeter ở các ngón chân, ngón tay, sẽ phát hiện dấu hiệu bệnh ở ngọn, thuộc cục bộ ở đầu ngón chân tay, sẽ phát hiện bệnh ở đường kinh, sẽ phát hiện bệnh trong nội tạng.

Vì Tây y đã không nghiên cứu kỹ về kinh mạch như đông y, nên đã có sai lầm cứ tưởng khi đo oxy, ở ngón tay hay ngón chân hay bất kỳ nơi nào trong cơ thể cũng đều giống nhau, nên việc đo ở những ngón tay khác hay ở ngón chân không cần thiết, nhưng thật ra nó rất quan trọng để khám định bệnh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *